một vì sao đang bay ngang qua
Vì vậy, nếu tấm bên ngoài bị vỡ vì một lý do nào đó, chúng ta vẫn sẽ có tấm kính ở giữa để bảo vệ khỏi áp suất thấp bên ngoài. Tất nhiên sẽ có một lỗ nhỏ trên tấm kính này, nhưng điều đó không liên quan gì đến hệ thống điều áp của máy bay. Mặc dù lỗ
Một vì sao đang bay ngang qua Nói với em rằng anh đã đi rất xa Ngôi sao kia như đang một mình Như chính em đang ở đây Từng cơn mưa đang rơi rơi nhanh Nhớ đến những lần đôi ta tay nắm tay Bước chân
Hotgirl Việt từng lên báo Trung vì quá xinh đẹp giờ ra sao: Nhan sắc không mai một, dáng cong đồng hồ cát . Venus - Ngày 18/10/2022 00:00 AM (GMT+7 Suốt nhiều năm qua, việc báo nước ngoài, đặc biệt là báo Trung Quốc thường xuyên đăng tải, khai quật những cô nàng hot girl Việt
Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Dlei Yang theo tiếng Ê Đê của Y Phôn, người nghệ sĩ đặc sắc của Tây Nguyên đương đại, có nghĩa là rừng thần, núi linh, núi thần. Nó là ngọn núi cao nhất quê hương bạn. Núi cao là chỗ thần rừng, thần núi và tất cả những gì cao thiêng nhất “sống”, tụ lại. Rảo bước trên Dlei Yang mới nhận ra đây chính là nơi khởi nguồn của con sông lớn Ea H’leo chảy giữa trái tim Tây Nguyên. Năm tháng chiến tranh, làng bạn cứ dời mãi, di tản mãi. Nhưng xem lại thì vẫn cứ quanh dưới chân ngọn núi Dlei Yang kia. Thế mới biết vì sao làng bạn cứ luôn mang cái tên Dlei Yang. Nghĩa rằng mấy con suối, khe nước, chiếc lá rớt xuống mà suốt hai ngày qua tôi lội qua là những giọt nước, chiếc lá đầu nguồn. Quê hương bạn là nơi đầu núi, đầu non. Bạn đã uống những giọt nước đó, ăn những chiếc lá đó mà nên người, thành Y Phôn. Chim phí – loài chim phiêu bạt Quê bạn thật mênh mông. Hai ngày qua đi, đứng chỗ nào cũng trông thấy núi Dlei Yang. Không còn một chỏm rừng nào cả, dù xứ rừng hội tụ, “Rừng thần”, nên càng thấy nó mênh mông. Cây cà phê đã lấp hết núi rừng xưa, phủ mặt đất. Tôi và bạn đang như gió lang thang. Cứ thế đi qua nhiều dấu tích của suối khe, rừng, rồi những rẫy vườn cà phê, cao su, tiêu của tha nhân. Sao lúc này, giữa thiên nhiên Dlei Yang, bạn không nói gì với tôi về âm nhạc mà cứ kể miệt mài về những hẻm hốc núi, khe vực nước chảy, về mùa mưa, mùa khô xứ sở, về cái gốc cây cổ thụ cháy xám trơ lại trên một sườn đồi, rồi một hai cái cây còn sót xanh trên sườn núi xa xa hơn kia. Xử lý một bản nhạc. - Hát đi mà, nói đi mà, về âm nhạc ấy, Y Phôn à! - “Chứ không thấy cả thiên nhiên, cả cao nguyên lúc này đang là một bản giao hưởng miên man à!”, giọng Y Phôn. Y Phôn bảo tôi sao ngày tết mà lại cứ thích lang thang rừng núi. Tôi rằng tết nhất chỉ là “trò chơi quy ước” của con người cho một thời khắc, nó có nghĩa lý gì đâu với bóng hình con người trong vũ trụ chứa chan. - “Vậy thì ông như con chim phí rồi!”, Y Phôn nói. * * * Tôi là kẻ đồng bằng phiêu bạt, chợt tạt ngang miền thượng, biết quái gì về loài chim phí ấy. “Chim phí là loài chim phiêu bạt” - lời Y Phôn. Nó là loài chim không bay rợp trời, không thành bầy đàn đông đảo. Con mái có màu xanh lá non, con trống có màu đỏ. Thi thoảng mới gặp năm bảy con chung sống và không sống cố định một cánh rừng nào, tổ của nó không mấy ai từng thấy. Y Phôn nói rằng có một điều chắc chắn rằng chim phí xuất hiện ở đâu thì chỗ đó là cánh rừng đẹp và thuần khiết, an lành. Những cánh rừng xao động, suối ô nhiễm, núi lở, cây đổ, cây cháy không bao giờ thấy loài chim này. Từ bé thơ, ông cha bạn đã bảo chim phí là “vật linh”, nguồn cội của dòng dõi bạn - dòng họ Ksor của nhóm sắc dân Ê Đê Bih. Vậy thì con chim đó đã vận vào chính bạn, hoặc bạn chính là một hiện thân nào đó của nó rồi. Yàng kia như đã chuyển hóa chim phí thành bạn, hoặc bạn là con người biết hót được “ngôn ngữ” của chim phí. Không trốn tránh đâu được nữa, Y Phôn ạ! * * * Bài hát đầu tiên Y Phôn sáng tác là “Lời ru mùa lúa” nhưng chỉ khi viết “Chim phí bay về cội nguồn” bạn mới được thừa nhận là “nhạc sĩ”. Nhưng ở đoàn Ca múa nhạc dân tộc Dak Lak bạn chỉ là kẻ hát lót. Con chim phí thật ngoài trời kia cũng sống lặng lẽ thế mà, ở những cánh rừng khộp Ea H’leo, R’rông Bông, Ea Súp. Ngày Y Phôn chưa được biết đến, đây đó ở Tây Nguyên có người đã ngang xương bảo mình là tác giả bài “Chim phí bay về cội nguồn”. Ngày đó Y Phôn gắn chặt mình ở Dlei Yang của huyện Ea H’Leo tỉnh Dak Lak, viết nhạc bằng bản năng, trong tâm linh và tâm thế của một thằng con trai rẫy nương, chứ đâu phải “nhạc sĩ” để mà thiên hạ biết. Đó cũng là bản tân nhạc “Tây Nguyên” nhất đầu tiên về Tây Nguyên, khác hẳn hoàn toàn những bài hát lâu nay gọi là “đại diện” cho Tây Nguyên của những nhạc sĩ lữ khách, chợt đến chợt yêu và cảm Tây Nguyên, hoặc “đóng giả” là Tây Nguyên. Không phải Y Phôn thì ai mà biết để mà viết ra được rằng “Chim phí bay ngang bay ngang qua bầu trời/ Chim phí vẫn bay về cội nguồn”. Và càng rõ hơn, sừng sững hơn khi sau đó anh viết tiếp bài “Đi tìm nữ thần mặt trời”. Bài hát này góp phần đưa Tây Nguyên thoát khỏi vị trí “vùng trũng” của âm nhạc hiện đại, thoát khỏi tính miền núi, vùng xa, tỉnh lẻ. “Bầu trời”, “mặt trời”, là hiện thân của xã hội văn hóa mẫu hệ - đối với người Ê Đê bạn mà. Y Phôn ôm đàn hát ở quê nhà, trong căn nhà anh về “làm chồng” ở buôn Dlei Yang bây giờ. * * * Dừng lại bên một ngọn núi thấp cũng đã thảm dày rẫy cà phê, Y Phôn chỉ tôi đấy là nơi anh hay lang thang và viết ra những giai điệu “Một mình lang thang trên đất này/ Một mình qua sông, qua núi đồi/ Theo dấu chân cha ông ngàn đời”. Kẻ lang thang đã là một trạng thái của nghệ sĩ. Và khi anh ta viết tức là hiện thực hóa cái nghệ sĩ lang thang đó. Cái lang thang không phải bắt chước mà được, mà viên thành. Cái lang thang của nghệ sĩ, nhạc sĩ Y Phôn là từ trong hồn cốt của “công dân rừng”, con của rừng. Nó chảy ra từ sự chìm đắm hoang dã, nó lặng, nó động, nó hấp thụ và chuyển hóa rốt ráo, nó đau khổ tận cùng và nó vui vẻ quyết liệt. Nên nó mới vang lên giai điệu “Tôi như con chim lạc bay trên đồi cao/ Tôi như dòng sông khao khát lời/ Tôi như giọt mưa không có lời”. Bạn phải đủ “thương” hoặc đủ “đau” mới viết được những gì thuộc về cái bên trong của một sắc dân, cộng đồng, xứ sở, một cành cây, một con suối, một con thú chăng? Tôi đang đi qua không gian ra xuất hiện những bài hát đặc trưng, đặc quánh hồn núi rừng, hay nhất về Tây Nguyên. Những bài hát đó là từ bạn và không gian đó là nơi nhào nặn ra bạn. Dlei Yang huyện Ea H’leo, vùng đất đủ sự mát lành của rừng lá rộng thường xanh với đất bazan màu mỡ nhưng cùng lúc cũng đủ sự tàn bạo của nắng nóng và cát cháy rừng khộp - nghĩa rằng nó khắc nghiệt, không hẹp hòi và cũng không “nương tay” với con người. Mẫu hệ của tôi ơi! Đi trong nắng gió thật sướng toàn thân nhưng đôi lúc nên nghỉ chân dưới một bóng cây hoặc một cái chòi. Tôi và Y Phôn bước vào căn nhà sàn hoang nhỏ bé trong một rẫy cà phê. Nắng rọi nhiều tia vào các vách gỗ bị thủng, khiến cho cái hoang không ẩm lạnh, cô tịch. Gió và nắng là “khách” của nó. Những khi Y Phôn về với rẫy là lúc ngôi nhà này “có chủ”. Y Phôn đưa tay vừa đi vừa gạt một số mạng nhện to, rồi vớ tay lấy một trái bầu trên giàn bếp lau. “Nhà sàn của mình. Cà phê ngoài kia của gia đình mình”, Y Phôn nói. Với người Ê Đê, những khi làm mùa, cần ở lại rẫy là có những căn nhà như thế này. Người Ê Đê ngày nay giữa rẫy kiếm sống và nơi ở thường không đồng nhất, cách xa nhau. Y Phôn nói rằng bài hát “Đôi chân trần” ra đời trong rừng, nương, rẫy mà tôi đang ở đây. “Cha đi lượm quả ngọt rừng, cho con ngủ qua đêm/ Cha đi lượm hạt thóc, cho con một bát cơm chiều hạt” lời trong bài hát trên. “Chim phí bay về cội nguồn” cũng thế, vừa viết về cái sự thật đời mình và cái siêu thực của thế giới mẫu hệ qua hình ảnh của mẹ, của chị và nhất là về đứa em gái hằng ngày lầm lũi lên rẫy. Y Phôn trong không gian nhà dài trên rẫy. Lúc này đây, ngay trên đồi nương hằn dáng hình đứa em gái lam lũ, mất chồng, chất ngất cô độc đó, cộng với phẩm chất hoang dã của thằng nghệ sĩ núi rừng đã khiến Y Phôn thoát ra những câu nhạc đắng hanh thoát mà đầy thương yêu “Cô gái trở về một mình, về với ngọn núi xa/ …Ánh mắt bay nghiên chiều/…Ngọn nguồn núi, chiếc lá rơi rơi” “Cô gái trở về một mình”. Thì cũng như “Đôi chân trần” là câu chuyện thật về cuộc sống thường nhật của người cha và tâm hồn thằng con nhỏ khi quẩn quanh núi rừng vào thời đoạn gian khó, nhưng cận cảnh câu chuyện của anh này lại là sự bao hàm về bao nhiêu người cha và thằng con Ê Đê khác. Phôn rằng, những lúc nằm trong căn nhà sàn chơi vơi thế này bạn mới thấy mình đang ở “nhà”, đang sống “đúng” chỗ của mình. Vì thế mà nay căn nhà bạn có ở ngoại ô Buôn Ma Thuột chỉ cốt vì cho hai đứa con tiện ăn học, “chúng đã lỡ ăn học ở đó”. Còn bạn, cứ cuối tuần phóng xe hơn trăm cây số để về với Dlei Yang, không gian làng buôn máu thịt. * * * Nhạc của Y Phôn đẹp, khác hoàn toàn bất cứ ai viết về Tây Nguyên. Y Phôn không giả danh hay son phấn lên câu chuyện, đối tượng mình viết. Nghe là biết nhạc “ Y Phôn” và thấy man mác trong đó là hơi thở dân ca truyền thống Ê Đê. Cái đẹp từ cái chân thật, sự thật về những gì bày ra, cùng dòng chảy chuyển động bên trong của đời sống, tâm hồn, vạn vật ở Tây Nguyên. Hồn của bạn ở nương rẫy. Giai đoạn bạn chia xa Đoàn ca múa nhạc dân tộc Dak Lak để về làm rẫy ở Dlei Yang cũng là lúc bạn cho ra đời những bài hát tuyệt vời nhất. Đúng nghĩa bạn là kẻ cuốc rẫy, tay thợ rừng viết nhạc, từ nghĩa đen cho đến chiều nghĩa thăm thẳm của nó. Bàn tay chai lỳ, ngón tay ngắn đủn nhưng sao mà nhạc nó mênh mông, hoang vu đến vậy không biết. * * * Giờ thì mình lại ngồi trong căn nhà đúng nghĩa “Nhà mình” của bạn, ở cái làng nằm trên ngọn đồi bên kia của Ủy ban nhân dân xã Dlei Yang. Gọi là “nhà mình” chẳng qua gần 30 năm qua, bạn đã “thuộc về nhà này”. Nàng H’Nháp đã “bắt” bạn về làm chồng thì dĩ nhiên bạn phải là thành viên của căn nhà này. Đàn ông Ê Đê, về lý thuyết là không có nhà và có vợ con là “mất tên”. Như bạn đây, mấy ngày qua tôi chẳng nghe ai trong làng gọi tên bạn, mà là “Ma Ya”. H’Ya là tên đứa con đầu của bạn. “Ma” nghĩa là “cha”, “bố”. Người ta sẽ gọi bạn chết tên “Bố của H’Ya”. Với dân miền xuôi chúng tôi là “lạ”, là “không thể thế được”. Nhưng tôi thấy bạn tự hào về điều độc đáo đó. Vì “đàn ông” phải là kẻ chịu chơi, đứng trên tất cả là khi bạn không sở hữu cái gì, mà thực ra họ là cái quái gì mà phải “nắm quyền”, phải “phụ hệ”. Những cái thứ kia chỉ là hình thức, quy ước, cũng hư vô thôi. Giọt mưa rơi trên đất Không còn chỏm rừng nào cả trong vùng Dlei Yang mênh mông rừng nguyên sinh buổi nào. Ngọn núi thiêng trơ trọi trắng đến bạc phơ, như nó chưa từng là núi rừng. Ngồi nghe người già kể về nó tôi tiếc, còn bạn lặng câm. Rồi bạn bảo “Mọi thứ cứ như trong giấc mơ. Cuộc đời không phân biệt được thực và hư nữa”. Người ta nhìn “bạt ngàn cao su, bạt ngàn cà phê” mà cười híp mắt. Còn bạn quá nhạy cảm, vì nhạy cảm nên bạn khổ; nữ thần mặt trời bắt bạn làm nghệ sĩ, nghệ sĩ từ hơi thở đất đai sinh ra chứ không từ thánh đường hay chốn kinh viện hàn lâm. Bạn nói bạn tiếc cho quê hương, dồi dào mà gầy guộc, rôm rả mà chơi vơi. Bạn hay tự khuyên nhủ mình“ Không ai hát thay chúng ta!”. “Hết rừng, thứ gì che chở bà con. Con người neo bám vào gì đây. Nền văn hóa Ê Đê, từ lề thói đến tình người, ý nghĩa cuộc sống, thế giới tinh thần, đều từ rừng sinh ra”, bạn ngừng hát để tâm tình. Có dạo lạc bước sang Nam Tây Nguyên - Đà Lạt, bạn mang theo những câu nhạc tinh nguyên viết về Dlei Yang “Mong cho một lần trời đừng sáng vội/ Để cánh chim rừng nghiêng mình trong đêm khuya/ Mong cho một lần trời đừng tạnh cơn mưa/ Để lá cỏ uốn ngực trong cơn khát”ca khúc “Cơn khát”. Nay ở rừng thiêng xưa, quê nhà Dlei Yang, bạn rải lời thê thiết “Rừng lửa nắng cháy đã héo còn ai hay/ Rừng gió xoáy rừng đốt cháy còn ai nhìn thấy/ Rừng vênh veo héo khô từng này/ Rừng không gió mát, là rừng không tiếng hát/… Dòng nước lũ cuồn cuộn xoáy vào dòng đời/ Xoáy vào vòm trời/Xoáy căn nhà tranh, mẹ nhìn trời buồn xa xa”ca khúc “Ngổn ngang buồn”. Người đồng bằng viết về Tây Nguyên trong tâm thế của “khách du”, giá trị tạo ra mang ý nghĩa khác, cho dù họ có yêu quê hương bạn và tài hoa đến bực nào. Sứ phận của bạn là kẻ gánh nạn tâm hồn. Chịu “đày” đi Phôn, trái tim nghệ sĩ núi lênh đênh, tâm hồn nghệ sĩ đi hoang, hiểu biết của nghệ sĩ lỡ làng. * * * Bạn bảo tôi có biết không, rằng “Rừng là một trái tim”, vào buổi chiều tà Dlei Yang im thênh thang sau một ngày nắng gió làm việc miệt mài và tôi quá giang tâm hồn bạn. Thì ra câu hát “Rừng là một trái tim không hận thù” trong bài “Ngổn ngang buồn” đang được mọi người yêu thích, bắt đầu từ cảm thức sâu lung linh này đây. Bạn sừng sững lặng lẽ giữa Tây Nguyên. Nghệ thuật là một nỗi đau mà nghệ sĩ là kẻ bị cõi nhân sinh, thế nhân “đày”. NGUYỄN HÀNG TÌNH
Là đại dương được công nhận có diện tích lớn nhất trên địa cầu, Thái Bình Dương luôn mang những bí ẩn khiến nhiều người phải dè với hành khách thường xuyên có những chuyến bay qua lại giữa châu Á và châu Mỹ, có một thắc mắc đặt ra nhưng vẫn chưa có lời giải đáp rõ ràng đó là Tại sao hầu hết các chuyến bay đều tránh cung đường thẳng qua Thái Bình Dương?Việc băng qua Thái Bình Dương không hề là một đường thẳng giống như ta thấy trên bản chí là khi bay từ Mỹ qua Nhật Bản hay Hàn Quốc thì máy bay cũng thường bay vòng lên về phía Alaska chứ nhất định không đi lộ trình chất, nguyên nhân chủ yếu vẫn là vì tiết kiệm thời gian và nhiên liệu. Nghe qua thì có vẻ vô lý nhưng sự thật thì việc băng qua Thái Bình Dương không hề là một đường thẳng giống như ta thấy trên bản vi trái đất ở xích đạo lớn hơn ở gần các cựcThứ nhất, do chu vi của trái đất ở xích đạo lớn hơn ở gần các cực, tham khảo từ USA Today. Vì vậy, đường bay vòng ngắn hơn đường thẳng. Mặc dù nhiều người nghĩ rằng bay thẳng từ điểm A đến điểm B có thể là quãng đường nhanh nhất, điều này chỉ đúng trên bản đồ đất có hình cầu chứ không phải một mặt phẳng. Trái đất tự quay quanh trục của nó, nên phần xích đạo như “phình ra”. Do đó chu vi hành tinh ở quanh xích đạo lớn hơn rất nhiều so với ở các vĩ độ cao hơn hoặc thấp hơn, thu hẹp dần về phía hai cực. Việc chọn lộ trình bay vòng sẽ giúp giảm quãng đường hơn khá nguyên nhân khác nữa đó là các lộ trình bay phải được thiết kế để đảm bảo máy bay có thể liên lạc được trạm thu phát sóng vô tuyến ở mặt đất và sẵn sàng cho các khả năng cứu hộ nếu chẳng may gặp nguy bay qua Thái Bình Dương là điều hết sức liều lĩnh vì sẽ chẳng có sân bay nào để máy bay có thể hạ cánh nhanh chóng trước các khả năng tai nạn, đó là còn chưa kể đến việc thời tiết trên biển thì khó ổn định hơn đất liền.
Mặc dù đa số đều từng nghe tới Tam giác quỷ Bermuda, nơi tàu và máy bay biến mất bí ẩn trên Đại Tây Dương nhiều chục năm qua, nhưng không phải ai cũng biết có một nơi tương tự ở Nevada, Mỹ. Sơ đồ tam giác Nevada. Ảnh The SunTheo trang khu vực tam giác quỷ Nevada nằm ở dãy núi Sierra Nevada tại bang Nevada và California. Khoảng máy bay đã mất tích ở đây trong khoảng 80 năm qua. Ở khu vực có người ở nhưng hẻo lánh này, có hơn sa mạc núi và nhiều hiện trường tai nạn máy bay không bao giờ được tìm đang xem Một vì sao đang bay ngang quaTam giác Nevada có một đỉnh nằm tại Las Vegas ở phía đông nam Nevada, một đỉnh ở Fresno thuộc phía tây California và một đỉnh ở Reno phía trên cùng Nevada. Trong khu vực hoang dã này có Khu vực 51 bí ẩn, căn cứ không quân tối mật của Mỹ. Ngoài hàng chục thuyết âm mưu như vật thể bay không xác định, các hoạt động dị thường quanh Khu vực 51, có nhiều giả thiết tương tự liên quan tới tam giác máy bay do các phi công lão luyện điều khiển trong suốt nhiều chục năm qua đã biến mất trong các tình huống bí ẩn và trong nhiều vụ, người ta không bao giờ tìm thấy xác máy Steve Fossett. Ảnh EPAVề sau, vào ngày 29/9, chứng minh thư của Fossett được một người leo núi phát hiện tại dãy núi Sierra Nevada ở California. Vài ngày sau, người ta tìm thấy khu vực máy bay rơi, cách vị trí cất cánh ban đầu 104km. Họ tìm thấy hai mảnh xương cách vị trí máy bay rơi 800m. Người ta xác định đây là xương của Steve máy bay của ông Fossett. Ảnh EPAMột trong những vụ máy bay mất tích đầu tiên ở “tam giác quỷ” Nevada xảy ra cách đây 78 năm khi chiếc máy bay ném bom B-24 lao xuống dãy núi Sierra Nevada năm 1943. Máy bay này cất cánh ngày 5/12, có cơ trưởng là Trung úy Willis Turvey, cơ phó là Trung úy Robert M. Hester, chở theo bốn thành viên phi hành đoàn nữa là Trung úy William Thomas Cronin – hoa tiêu, Trung úy Ellis H. Fish – người cắt bom, Trung sĩ Robert Bursey – kỹ sư; và Trung sĩ Howard A. Wandtke, người vận hành vô tuyến. Chuyến bay là một nhiệm vụ huấn luyện ban đêm thường lệ, xuất phát từ căn cứ Hammer Field ở Fresno, bang California để tới Bakersfield và Tucson rồi quay điều tra về vụ mất tích của chiếc máy bay ném bom thứ hai, Darden đã gặp nhiễu loạn do gió to và bắt đầu mất áp suất thủy lực. Khi Darden nhìn thấy phía trước như là khoảng rừng thưa phủ tuyết, anh đã bảo phi hành đoàn nhảy ra, nhưng chỉ có hai người nhảy. Điều tra cho thấy phi công chắc hẳn đã nhầm mặt hồ đóng băng với khoảng rừng phủ tuyết. Tuy nhiên, hai người nhảy dù ra khỏi máy bay và sống sót cho biết mặt hồ không bị đóng băng. Khi máy bay được tìm thấy, nó đang nằm ở độ sâu 60m dưới mặt nước và 5 thành viên phi hành đoàn còn lại vẫn ở nguyên vị khi đó, ông Clinton Hester, cha của cơ phó Robert Hester trong vụ máy bay mất tích đầu tiên, bắt đầu tự tìm con trai và cuộc tìm kiếm này kéo dài 14 năm. Khi ông chết vì đau tim năm 1959, ông vẫn chưa tìm thấy con trai hay bất kỳ bằng chứng nào về máy bay mất tích. Tuy nhiên, một năm sau, chiếc máy bay được các nhà nghiên cứu Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ tìm thấy hồi tháng 7/1960 khi họ đang làm việc tại một khu vực hẻo lánh ở High Sierra, phía tây hẻm núi LeConte ở Công viên Quốc gia Hẻm núi Kings và đây, họ tìm thấy xác máy bay trong và gần một cái hồ không tên. Về sau, các điều tra viên Lục quân Mỹ cho biết xác máy bay chính là chiếc máy bay ném bom đầu tiên mất tích mà Willis Turvey và Robert M. Hester điều khiển. Ngày nay, cái hồ này được gọi là thêm Đồng Hồ Julius Của Nước Nào, Ưu Điểm Và Dòng Sản Phẩm Nổi BậtSteeves kể lại rằng khi một cái gì đó trong máy bay phát nổ, anh ngất trong giây lát nhưng kịp thời tỉnh lại để nhảy ra khỏi máy bay, bị thương nặng ở cả hai mắt cá chân khi tiếp đất. Dùng dù để giữ ấm, anh đã bò suốt 32km trong thời tiết băng giá ở độ cao khoảng trong 15 ngày mà không có đồ ăn hay nơi trú ngụ. Cuối cùng, anh tới một cabin bỏ hoang của Cơ quan Công viên Quốc gia, tìm thấy vài lon thức ăn đóng hộp và thiết bị câu cá. Sau đó, Steeves sống sót bằng câu cá, săn nai bằng khẩu súng khi lấy lại sức, Steeves tìm cách tìm đường về thế giới văn minh. Trong thời gian về, anh suýt chết đuối trên sông Kings, rồi tình cờ gặp một người và đã được người này cho đi nhờ rõ ràng là một người dũng cảm nhưng một số người nghi ngờ câu chuyện của anh do anh biến mất vào giữa thời điểm Chiến tranh Lạnh và vì không thể tìm thấy xác máy bay. Mãi tới năm 1977, vòm kính che buồng lái máy bay mới được tìm thấy nhưng xác máy bay thì không ai biết ở 1941, Trung úy Leonard C. Lydon nhảy dù thoát thân sau khi phi đội máy bay chiến đấu của Lục quân Mỹ lạc hướng trên núi. Chiếc P-40 rơi trong vòng 1,6km tại nơi anh hạ dù xuống Công viên Quốc gia Hẻm núi Kings và Sequoia. Tới tận ngày nay, xác máy bay vẫn chưa được tìm vụ nổi tiếng nữa là vụ phi công Charles Ogle mất tích sau khi cất cánh từ Oakland, California hồi tháng 8/1964. Ogle biến mất khi trên đường tới Las Vegas, Nevada. Không ai hay tin gì về Ogle và chiếc máy bay từ Alice và Temple Crag trên dãy Sierra Nevada. Ảnh CommonsVậy chuyện gì đã khiến máy bay mất tích ở “tam giác quỷ” Nevada? Một số người theo thuyết âm mưu nói rằng lý do có quá nhiều máy bay biến mất là do liên quan tới Khu vực 51, nơi Không quân Mỹ thử nghiệm máy bay bí mật. Nhưng, nhiều chuyên gia cho rằng các vụ biến mất này là do điều kiện khí quyển và địa lý khu núi Sierra Nevada chạy vuông góc với dòng tia các luồng gió thổi nhanh trong các dòng hẹp tồn tại ở khí quyển Trái Đất. Dòng tia, hay còn gọi là gió mạnh Thái Bình Dương, kết hợp với đỉnh núi cao và dãy núi hình chữ V đã tạo ra các cơn gió không ổn định, khó lường và các luồng gió ập xuống. Hiện tượng thời tiết này đôi khi được gọi là “sóng núi”, nơi máy bay bị hất văng và lao giả thiết khác gồm lỗi của phi công. Người thiếu kinh nghiệm có thể không biết xử lý tình huống khi rơi vào vùng nhiễu loạn và mất phương hướng trên địa hình núi.
một vì sao đang bay ngang qua